Thị thực E-2 cho phép các nhà đầu tư và gia đình của họ sống và làm việc tại Hoa Kỳ. Đây là một trong những thị thực lâu đời nhất của Hoa Kỳ, đã từng được sử dụng dưới hình thức tương tự trong hơn 200 năm và có trước luật nhập cư hiện đại. Trong lịch sử, thị thực E-2 phát sinh từ một hiệp ước giữa Hoa Kỳ và một quốc gia nước ngoài nhất định, được gọi là Hiệp ước Hữu nghị, Thương mại và Điều hướng. Hiệp ước lâu đời nhất là ký kết với Vương quốc Anh vào năm 1815 để thúc đẩy thương mại giữa hai quốc gia tham chiến trước đó.
Hiệp ước Ghent, được ký kết sau Chiến tranh 1812, giúp đặt nền móng cho thị thực E-2 hiện đại
Năm 1924, loại thị thực E bắt đầu được luật hóa thành luật với Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch (INA) năm 1924, được giới thiệu với tầng lớp thương nhân hiệp ước E-1 để giúp tạo thuận lợi cho thương nhân nước ngoài. Lớp thương nhân hiệp ước đã chứng kiến sự gia tăng lớn trong đầu tư nước ngoài và năm 1952, Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch đã tạo ra lớp nhà đầu tư hiệp ước E-2 đưa vào luật sử dụng hiện đại thị thực E-2.
Tổng thống Coolidge ký Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1924
Hiện tại, có 80 quốc gia hiệp ước E-2 với một số bổ sung gần đây là Chile và Singapore, trong số những quốc gia khác. Thị thực E-2 lần đầu tiên chứng kiến sự gia tăng phổ biến vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 khi nhiều công ty lớn của Nhật Bản như Honda, Panasonic và Toyota bắt đầu mở các nhà máy và văn phòng tại Hoa Kỳ. Việc di chuyển này cho thấy sự cần thiết của các kỹ sư và chuyên gia Nhật Bản đi cùng với các công ty Nhật Bản mới có trụ sở tại Hoa Kỳ và thị thực E-2 là một sự phù hợp lý tưởng cho nhiều nhân viên đó. Thị thực E-2 đã tiếp tục tăng mỗi thập kỷ từ khoảng 19.000 thị thực trong những năm 1990 lên 35.000 thị thực vào năm 2013 và hơn 43.000 thị thực được cấp vào năm 2019. Nhật Bản vẫn là người sử dụng thị thực E-2 lớn nhất với biên độ lớn với Hàn Quốc, Đức và Mexico cũng là những người dùng lớn.